Khung pháp lý về tài sản số, tiền số, tiền mã hóa: Từ thực tiễn đến luật hóa

​​​​​​​Theo số liệu thống kê năm 2024 của Triple-A, một công ty Fintech được cấp phép bởi Cơ quan tiền tệ Singapore, số lượng người sở hữu tiền số (cryptocurrencies) đã đạt đến 562 triệu người, tăng 33% so với 420 triệu người vào năm 2023. Trong số đó, Việt Nam chiếm khoảng 17.4% dân số, tương ứng khoảng 17 triệu người [1].

Bên cạnh đó, dữ liệu từ Chainalysis - côไng ty phân tích dữ liệu crypto hàng đầu thế giới - cho thấy dòng chảy tài sản mã hóa vào Việt Nam liên tục duy trì trên 100 tỷ USD mỗi năm, tính từ 2022-2024, cao hơn gấp đôi dòng vốn đầu tư nước ngoài chính thống [2]. Trong khi đó, tại Việt Nam, các nhà lập pháp cũng như các cơ quan thực thi pháp luật đã mất nhiều năm nghiên cứu, tranh cãi về tính hợp pháp của đồng tiền số và khi chưa được luật hoá thì đồng nghĩa với việc vẫn đang tồn tại một vùng kinh tế xám giữa sự phát triển không ngừng của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 (CMCN 4.0). Luật Công nghiệp công nghệ số được thông qua ngày 1🐼4 tháng 6 năm 2025 có hiệu lực từ 01/01/2026 (Luật CNCNS 2025) được xem là một bước tiến lớn trong việc q𝐆uy định và làm rõ về vấn đề “tài sản số” nhưng dường như vấn đề “tiền số, tiền mã hoá” vẫn còn đang bỏ ngỏ.

  1. Khái niệm về tài sản số, tiền số, tiền ✤mã ho&aacut♕e;

Trước sự phát triển mạnh mẽ của cuộc CMCN 4.0 cũng như nhu cầu cấp thiết của thực tiễn tại Việt Nam, nhiều văn bản dưới luật (bao gồm cả các văn bản hướng dẫn, trao đổi, ý kiến,… của nhiều Bộ, Ban, Ngành có liên quan) đã ra đời nhưng dường như vẫn không trả lời thoả đáng được c&aa𝐆cute;c vấn đề của thực tiễn xoay quan sự phát triển của tài sản số, tiền số, tiền mã hoá.

Theo Điều 46 và Điều 47 của Luật CNCNS 2025: “Tài sản số là tài sản theo quy định của Bộ luật Dân sự, được thể hiện dưới dạng dữ liệu số, được tạo lập, phát hành, lưu trữ, chuyển giao và xác thực bởi công nghệ số trên môi trường điện tử” và tài sản số gồm: (i) tài sản ảo trên môi trường điện tử; (ii) tài sản mã hoá; và (iii) tài sản số khác. Tuy nhiên, dường như điều này vẫn không hoàn toàn thoã mãn được sự mong đợi của các tổ chức, cá nh&acir🍸c;n có quan tâm đến lĩnh vực này bởi lẽ Luật CNCNS 2025 đã từng được kỳ vọng sẽ làm rõ được các vấn đề có liên quan đến tài sản số, bao gồm cả các vấn đề về tiền ảo, tiền mã hoá hay tiền số. Mặc dù vậy, Luật CNCNS 2025 được thông qua chỉ luật hoá được khái niệm “tài sản số” nhưng tài sản số theo luật này sẽ không bao gồm: “chứng khoán, các dạng số của tiền pháp định và tài sản tài chính khác theo quy định của pháp luật về dân sự, tài chính” và khái niệm “tài sản số khác” theo quy định của Luật này dường như là một quy định mở nhằm phòng ngừa cho những loại tài sản số khác mà các nhà lập pháp cũng chưa thể lường trước. Tuy nhiên, đây cũng thường là vấn đề gây tranh cãi và khó khăn khi áp dụng quy định của pháp luật để trả lời cho câu hỏi: tài sản số khác là tài sản nào?

Theo Ngân hàng Trung ương Châu Âu thì tiền mã hoá (cryptocurrencies) là tài sản mã hoá được phát hành để sử dụng như là một phương thức trao đổi ngang hàng hoặc là một phương tiện thanh toán, nó thường được gọi là “coin” (tiền đồng) hoặc “digital money” (tiền số). Ví dụ như bitcoin (BTC), Ether (ETH) và Ripple (XRP) [3]. Tuy nhiên, dường như vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về nó. Mặc dù vậy, sự phát triển của cuộc CMCN 4.0 đã mở ra nhiều hình thức h🦋oạt động đầu tư, kinh doanh, giao dịch và huy động vốn theo các phương thức khác nhau, trong đó có ICO (Initial Coin Offering) – hình thức huy động vốn thông qua phát hành tiền mã hoá. Điều này đòi hỏi các nhà lập pháp dù muốn hay không vẫn sẽ phải đối diện với thực tiễn và tiếp tục phải nghiên cứu để ban hành và hoàn thiện khung pháp lý về vấn đề này.

  1. Khung pháp lý về t&agra𒁏ve;i sản số, tiền số, tiền mã hoá

Việc huy động vốn thông qua phát hành tღiền mã hoá (ICO) được xem là một hình thức huy động vốn xuất hiện bên ngoài lĩnh vực tài chính truyền thống vì liên quan mật thiết đến tiền mã hóa và chủ y🐽ếu là tài trợ cho các dự án công nghệ trên hệ thống chuỗi khối (blockchain) [4]. Về vấn đề này, Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất khung pháp lý đối với tài sản mã hóa [5] nhằm giúp cho các doanh nghiệp có thể huy động vốn phát triển sản xuất kinh doanh, phát triển nền kinh tế số và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế là cần thiết. Việc sớm triển khai thí điểm này “hứa hẹn sẽ mở ra một  mới cho ⛦doanh nghiệp bên cạnh tài sản tài chính truyền thống” [6].

Luật CNCNS 2025 đã luật hóa khái niệm về tài sản số. Tuy nhiên, việc quy định tài sản số không bao gồm “chứng khoán, các dạng số của tiền pháp định và tài sản tài chính khác theo quy định của pháp luật về dân sự, tài chính” có lẽ là dựa trên quan điểm và góc độ là “phương tiện thanh toán” của tiền. Theo đó, về vấn đề này, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã từng có quan điểm: “Tiền ảo nói chung và Bitcoin, Litecoin nói riêng không phải là tiền tệ và không phải là phương tiện thanh toán hợp pháp theo quy định của pháp luật Việt Nam. Việc phát hành, cung ứng và sử dụng  tiền ảo nói chung và Bitcoin, Litecoin nói riêng (phương tiện thanh toán kh&ocir🃏c;ng hợp pháp) làm tiền tệ hoặc phương tiện thanh toán là hành vi bị cấm” [7]. Như vậy, có thể hiểu với cách quy định của Luật CNCNS 2025 về tài sản ảo thì tiền ảo, tiền mã hóa vẫn chưa được thừa nhận là có thể sử dụng cho mục đích thanh toán. Tuy nhiên, luật này đã thừa nhận và quy định rõ về việc tài sản ảo được dùng cho mục đích trao đổi hoặc đầu tư: “Tài sản ảo trên môi trường điện tử là một loại tài sản số có thể được dùng cho mục đích trao đổi hoặc đầu tư” [8].

Ảnh minh họa

Trên thực tế, vào năm 2016, Bộ Tài chính khi hướng dẫn quản lý thuế đối với hoạt động mua, bán tiền kỹ thuật số đã từng có quan điểm cho rằng: Hành vi mua, bán tiền kỹ thuật số không phải là hành vi bị cấm; Người sở hữu tiền kỹ thuật số có quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự nên thuộc “quyền tài sản” theo 🌳: Triple-A, T𒅌he State of Global Cryptocurrency ownership in 2024, page 4.

[2].

[3].

[4].

[5].

[6].

[7]. Văn bản số 5747/NHNN-PC ngày 21 tháng 7 năm 2017 V/v trả lời kiến nghị của ông Vũ Thái Hà về việc thiết kế trung tâm máy tính Bitcoin, Litecoin🐈 và các loại tiền ảo.

[🎶8]. Điểm a Khoản 2 Điều 47 Luật Công nghiệp công nghệ số năm 2025.

[9]. Văn bản số 4356/BTC-TCT ngày 01 tháng 4 năm 2016 của Bộ T&agr🦩ave;i chính khi hướng dẫn quản lý thuế đối với hoạt động mua, bán tiền kỹ thuật số.

[10]. Bản án số 22/2017/HC-ST ngày 21/9/2017 về khiếu kiện quyết định truy thu thu😼ế của Toà án ♍nhân dân tỉnh Bến Tre.

[11]. Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 11/4/2018 của Thủ tướng Chính phủ về🦹 việc tăng cường quản lý các hoạt động liên quan đến Bitcoin và các loại tài sản ảo tương tự.

[12].

[13]. Quyết định số 1131/QĐ-TTg ngà꧙;y 12 tháng 6 năm 2025 của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành danh mục công nghệ chiến lượcℱ và sản phẩm công nghệ chiến lược.

[14]. Mục 1 Thông báo số 81/TB-VPCP ngày 06 tháng 3 năm 2025 về Kết luận của thường trực chính chủ tại cuộc họp về việc hoàn thiện khung khổ pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản ảo, tiền ảo, tà🧸;i sản mã hoá, tiền mã hoá.

[15]. Mục III.3 Nghị quyết số 𝕴số 66-NQ/TW ngày 30/4/2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành phá𒁃p luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới.